Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ là ai?
Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ, còn được biết đến với nhiều danh xưng khác như Thái tử Đệ Tam hoặc Đệ Tam Vương Quan, là con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Trong hệ thống thần điện Tứ Phủ, ngài giữ vị trí đặc biệt quan trọng và được tôn kính rộng rãi trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
Theo truyền thuyết, Quan Lớn Đệ Tam là người con được vua cha hết mực yêu quý, nên được giao trọng trách cai quản miền Thoải phủ và thường xuyên hầu cận bên cạnh vua cha. Với tài năng và đức độ vượt trội, ngài đã trở thành vị thần quyền năng trong tâm thức người Việt, đặc biệt là những người sinh sống gần sông nước.

Trong dân gian, người ta thường ca tụng về sự anh linh và sức mạnh phi thường của Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ qua nhiều câu thơ, câu ca:
“Giáp bạc bao phen rực lửa hồng
Xông pha trăm trận cũng như không
Ra tay cứu nước trừ nguy biến
Tiếng để ngàn thu với non sông”
Không chỉ nổi tiếng với sức mạnh và lòng dũng cảm, Quan Lớn Đệ Tam còn được biết đến với tài phép siêu phàm, có khả năng điều khiển nước và biến hóa khôn lường:
“Hoá tức thì lâu đài điện các
Dâng nước về Thuỷ Quốc một khi
Có phen lấy ngọc lưu ly
Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang”
Sau khi hóa, Quan Lớn Đệ Tam về chầu Long Cung và trở thành người “cầm cân nảy mực, thông tri Tam Giới, quyền cai các thanh đồng đạo quan”. Chính vì vậy, đôi khi người ta còn gọi ngài là Ông Cai Đầu Đồng. Trong những lúc thanh nhàn, ngài thường truyền lệnh cho ba quân tập hợp thuyền bè, dạo chơi khắp miền sông nước và phù hộ cho ngư dân.
Sự tích Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ
Theo tài liệu “Hùng triều nhất vị thuỷ thần xuất thế sự tích” được lưu giữ tại Đền Lảnh Giang, huyền tích về Quan Lớn Đệ Tam có nhiều chi tiết hấp dẫn và đầy ý nghĩa tâm linh.
Chuyện kể rằng, ngày xưa tại trang An Cố, huyện Thuỵ Anh, phủ Thái Ninh, trấn Sơn Nam có vợ chồng ông Phạm Túc sống đức hạnh nhưng không có con cái. Một đêm nọ, vợ ông là bà Trần Thị Ngoạn gặp một cô gái mồ côi đang đi tha phương cầu thực. Động lòng trắc ẩn, bà đã đón cô gái về nuôi và đặt tên là Quý. Không lâu sau, ông Túc qua đời vì bệnh, và hai mẹ con đã chọn một nơi đất tốt để an táng cho ông.
Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, bỗng nhiên mặt nước nổi sóng dữ dội và một con thuồng luồng khổng lồ xuất hiện, quấn lấy nàng khiến nàng ngất lịm. Từ đó, nàng Quý mang thai. Không chịu nổi những lời gièm pha của dân làng, nàng đã trốn đến Trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc) để sinh sống.

Đến ngày mùng 10 tháng Giêng năm Tân Tỵ, nàng Quý sinh ra một cái bọc. Cho rằng đây là điềm chẳng lành, nàng đã quẳng chiếc bọc xuống sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước đến trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình) và mắc vào lưới của ông Nguyễn Minh. Sau nhiều lần gỡ bỏ nhưng bọc vẫn cứ mắc lại, ông Minh đã khấn và rạch bọc ra, bất ngờ thấy ba con rắn từ trong bọc trườn xuống sông, mỗi con đi theo một hướng khác nhau.
Dân làng sợ hãi, đã cùng nhau ra bờ sông tế tụng và xin được lập đền thờ. Vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi cơn giông dữ dội, và khi gió mưa tạnh, mọi người đều nghe thấy tiếng ngâm vịnh từ dưới sông:
“Sinh là tướng, hóa là thần
Tiếng thơm còn ở trong dân muôi đời
Khi nào giặc dã khắp nơi
Bọn ta mới trở thành người thế gian”
Theo truyền thuyết, ba vị tướng thời Hùng chính là con của Bát Hải Long Vương và Nàng Quý. Vì nàng Quý là con nuôi của vợ chồng ông Phạm Túc nên dân gian đã ghép họ Phạm cho các vị.
Khi Thục Phán có ý định cướp ngôi vua Hùng Duệ Vương và cầu viện binh phương Bắc, Duệ Vương đã lập đàn cầu đảo. Trong giấc mộng, nhà vua được sứ giả mặc áo xanh chỉ dẫn triệu ba vị thủy thần sinh ở đạo Sơn Nam để dẹp giặc. Khi sứ giả đến trang Đào Động, trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội, và một người mặt rồng mình cá chép cao tám thước xuất hiện, xưng tên là Phạm Vĩnh, xin được đi dẹp giặc.
Ông Phạm Vĩnh đã gọi hai em đến bái yết thân mẫu, rồi cùng nhau đi yết kiến Duệ Vương. Dưới sự chỉ huy của ông, quân Thục đều bị tiêu diệt. Vì công lao to lớn, nhà vua phong cho ông là “Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần”, nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch.
Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất, bỗng nhiên trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không thấy ông đâu nữa. Nhà vua liền gia phong cho ông là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ưng Thái Thượng Đẳng Thần”, đồng thời đặt lệ quốc lễ, ban sắc chỉ cùng 400 quan tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền miếu để phụng thờ.
Tuy nhiên, còn có một truyền thuyết khác kể rằng Quan Lớn Đệ Tam đã thác trận, xác phàm bị chém làm đôi và ném trôi sông. Phần đầu trôi dạt vào bãi sông thuộc làng Xích Đằng (phường Lam Sơn, Thành phố Hưng Yên), được dân làng lập đền thờ. Còn phần thân dạt vào ven sông thuộc thôn Yên Lạc (xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam), cũng được dân làng chôn cất và lập đền thờ, đó chính là đền Lảnh Giang nổi tiếng.
Đền thờ Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ
Với vai trò quan trọng trong tín ngưỡng thờ Mẫu, Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ được thờ phụng tại nhiều đền miếu trên khắp miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là tại các vùng gần sông nước.
Đền thờ Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ được lập ở nhiều nơi như Lạng Sơn, Hưng Yên, và đặc biệt là Lảnh Giang Linh Từ (Nam Hà). Ngoài ra, còn có các đền thờ ngài tại các cửa sông và tại Thái Bình, ngay đằng sau đền Đồng Bằng phía QL 10 đi Hải Phòng.
Trong số các đền thờ, Đền Lảnh Giang (thường được gọi là Đền Lảnh) là một trong những nơi thờ phụng Quan Lớn Đệ Tam nổi tiếng nhất. Đền nằm trong địa phận thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Theo Thần Phả, đền này không chỉ thờ Tam vị danh thần họ Phạm đời Hùng Vương thứ 18 mà còn thờ Tiên Dung công chúa và Chử Đồng Tử.

Trong nghi lễ thờ cúng Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ, ngày 24 tháng 6 âm lịch được xem là ngày chính tiệc của ngài. Đây là dịp quan trọng để tín đồ thể hiện lòng thành kính và tưởng nhớ công đức của vị thần linh thiêng này.
Khi hầu đồng, Quan Lớn Đệ Tam thường mặc áo trắng thêu rồng, hổ phù và thực hiện các nghi lễ như tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp, đồng thời múa đôi song kiếm. Trong các dịp đại tiệc khai đàn mở phủ, người ta thường thỉnh quan về chứng đàn Thoải Phủ với đầy đủ long chu phượng mã, lốt tam đầu cửu vĩ, tất cả đều mang màu trắng đặc trưng.
Bản văn dâng Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ là một tác phẩm văn học dân gian đặc sắc, ca ngợi công đức và quyền năng của ngài. Bản văn không chỉ mô tả chi tiết về lai lịch, dung mạo và tài năng của Quan Lớn mà còn kể về những cuộc du ngoạn của ngài trên khắp các miền sông nước:
“Chiếc thuyền lam nổi dòng Xích Bích
Đưa quân chèo du lịch bốn phương
Có phen tuần thú sông Thương
Trở ra tỉnh Bắc, Quế Dương, Lục Đầu”
Khi thực hiện nghi lễ cúng Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ, người dân thường sử dụng văn khấn đặc biệt, bày tỏ lòng thành kính và cầu mong sự phù hộ từ vị thần linh thiêng. Văn khấn thường bắt đầu bằng việc kính lạy Tam tòa Đức Thánh Mẫu, Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ và cộng đồng các quan, sau đó là lời cầu xin sự che chở, bình an và may mắn cho gia đình và bản thân.
Qua hàng ngàn năm lịch sử, hình tượng Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ vẫn luôn hiện diện mạnh mẽ trong đời sống tâm linh của người Việt. Ngài không chỉ là biểu tượng của sức mạnh và quyền năng mà còn là hiện thân của lòng nhân ái, sự bảo hộ và phù trợ cho con người trước những thách thức của cuộc sống.
Thảo luận về chủ đề