Trong không gian thiêng liêng của các đền điện thờ Mẫu Tam Tứ Phủ, ban thờ Ngũ Vị Tôn Quan luôn hiện diện trang nghiêm, thể hiện vị trí quan trọng của các ngài trong hệ thống tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Những vị thần này không chỉ được tôn kính bởi quyền năng siêu nhiên mà còn bởi vai trò bảo hộ, phù trợ cho cuộc sống bình an của người dân. Hãy cùng tìm hiểu về nguồn gốc, thần tích và ý nghĩa tâm linh của Ngũ Vị Tôn Quan trong văn hóa tín ngưỡng Việt.
Ngũ Vị Tôn Quan là ai?
Ngũ Vị Tôn Quan, còn được gọi là Ngũ Vị Tôn Ông hay Ngũ Vị Quan Lớn, là năm vị đại quan giữ vai trò then chốt trong hệ thống Tứ Phủ Công Đồng. Các ngài đứng hàng thứ hai trong hệ thống thần linh, chỉ sau Tam Tòa Thánh Mẫu, và được tôn kính rộng rãi trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.

Theo truyền thuyết, Ngũ Vị Tôn Quan đều là con của vua cha Bát Hải Động Đình, gắn liền với những chiến công hiển hách chống ngoại xâm, bảo vệ bờ cõi. Sau khi hóa, các ngài tiếp tục phù hộ quốc thái dân an, được nhân dân khắp nơi thờ phụng tại chính điện (ban Công đồng) trong các đền điện thờ Mẫu.
Ngũ Vị Tôn Quan bao gồm:
- Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên – vị quan đứng đầu, cai quản cõi Thượng Thiên
- Quan Lớn Đệ Nhị Thượng Ngàn (hay Quan Lớn Đệ Nhị Giám Sát) – cai quản vùng núi rừng
- Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ – cai quản vùng sông nước
- Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai – trấn giữ đồng bằng, biên chép sổ sách sinh tử
- Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh – thống lĩnh thiên địa binh, bảo vệ vùng duyên hải
Mỗi vị quan đều có nhiệm vụ, quyền năng và phạm vi cai quản riêng, tạo thành một hệ thống quản lý toàn diện từ núi rừng đến sông nước, từ đồng bằng đến biển cả, từ trần gian đến thiên đình.
Thần tích Ngũ Vị Tôn Quan
Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên
Tên đầy đủ của ngài là Đệ Nhất Thượng Thiên Hoàng thái tử Vương Quan, được dân gian tôn xưng là Đức Thánh Cả. Ngài được tước phong “Đào tiên đệ nhất – Điều thất hoàng thái tử Vương Quan thượng đẳng tối linh thần” và danh hiệu “Tham nghị triều chính Vương Quan”.
Là con trai cả của đức vua cha Bát Hải Động Đình, Quan Lớn Đệ Nhất trực tiếp hầu cận bên phải đền vua cha tại Đồng Bằng. Ngài đại diện cõi nhân gian, thừa hành Tam giới, tâu đối tội phúc nhân danh cõi thượng thiên. Đền thờ chính của ngài nằm trong quần thể đền Đồng Bằng.

Quan Lớn Đệ Nhất không giáng trần mà thường ngự trên Thiên Đình, là vị Tôn quan đại thần có quyền năng cao cả, được tôn kính đặc biệt trong hệ thống thờ Mẫu.
Quan Lớn Đệ Nhị Thượng Ngàn
Tên đầy đủ là Đệ Nhị Thượng Ngàn Hoàng Thái Tử Tôn Quan, được tước phong “Nhạc thần đại vương – Đô đài giám sát – Đệ nhị thượng ngàn Giám sát đại vương thượng đẳng tối linh thần”.
Là con trai thứ hai của Vua Cha Bát Hải Động Đình, ngài hạ phàm đầu thai vào Hoàng Cung ngày mồng mười tháng mười một năm Bính Dần. Ngài nổi tiếng là người văn võ toàn tài, thông minh chính trực, được mọi người ngưỡng mộ, kể cả các vương tôn công tử đều tìm đến làm học trò.

Sau khi về chầu Thiên Đình, ngài được giao quyền giám sát quản cai Sơn Lâm, Thượng Ngàn. Ngài thường giáng thế ban phúc cho dân, đặc biệt khi dân chúng gặp hạn hán, cầu đảo ngài thì lập tức có mưa thuận gió hòa. Đền thờ chính của ngài được lập tại Đền Quan Giám (Hữu Lũng, Lạng Sơn) và Phố Cát (Thanh Hóa).
Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ
Tên đầy đủ là Đệ Tam Thượng thiên hoàng thái tử vương quan, được tước phong “Thủy tào điển sứ – Đệ tam thủy thần nhạc đại vương thượng đẳng tối linh thần”.
Là con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình, ngài rất được vua cha yêu quý nên được giao quyền cai quản chốn Long Giai Động Đình, cận kề bên cạnh phụ vương. Khi hóa đi, ngài về chầu Long Cung, trở thành người cầm cân nảy mực, thông tri Tam Giới, quyền cai các thanh đồng đạo quan (nên còn được gọi là Ông Cai Đầu Đồng).

Khi thanh nhàn, ngài thường truyền ba quân tập hợp thuyền bè, dạo chơi khắp miền sông nước, phù hộ cho ngư dân. Đền thờ ngài được lập ở nhiều nơi như Lạng Sơn, Hưng Yên, Lảnh Giang Linh Từ (Hà Nam) và các cửa sông, cũng như ở Thái Bình đằng sau đền Đồng Bằng.
Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai
Tên đầy đủ là Quan lớn Khâm Sai quyền cai tứ phủ, được tước phong “Thiên Hựu Đại Vương thượng đẳng tối linh thần”.
Là con trai thứ tư của Vua Cha Bát Hải Động Đình, ngài được giao quyền trấn giữ đồng bằng địa linh và không giáng trần. Ngài thường ngự trên Thiên Đình, biên chép sổ sách sinh tử, chầu chực bên bệ ngọc bàn loan. Tương tự như Quan Đệ Nhất, Quan Đệ Tứ không giáng trần.
Đền thờ chính của ngài nằm ở đền Mẫu Sinh và đền Thánh Hóa, ngoài ra còn có ở sau đền Đồng Bằng phía đường QL 10 hướng đi Hải Phòng.
Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh
Tên đầy đủ là Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh, được tước phong “Đệ ngũ tôn quan thượng đẳng tối linh thần – Cao Lỗ đại vương – Đệ ngũ Tuần Tranh”.
Là con trai thứ năm của Vua Cha Bát Hải Động Đình, ngài giáng trần dưới thời Hùng Định Vương (Hùng Triều Thập Bát), trong một gia đình ở phủ Ninh Giang (nay là Hải Dương). Ngài là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thủy bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh.
Sau khi lập nhiều công lao to lớn, ngài được sắc phong công hầu. Ngài còn hiển thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà, dẹp hết những kẻ hại nước hại dân.

Ngọc Hoàng ban cho ngài quyền thống lĩnh thiên địa binh, thay quyền tam tứ phủ đại diện cho con người, thu chấp kim ngân tài mã, giải oan nghiệp sớ cho trần gian. Đền thờ ngài được lập ở đền Kỳ cùng Lạng Sơn, Đền Ninh Giang Hải Dương và các cửa sông vùng duyên hải.
Vai trò và ý nghĩa của Ngũ Vị Tôn Quan trong tín ngưỡng thờ Mẫu
Ngũ Vị Tôn Quan giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ Phủ. Các ngài được xem là những vị thần có quyền năng bảo hộ, phù trợ cho cuộc sống của người dân trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Trong các nghi lễ hầu đồng, Ngũ Vị Tôn Quan thường được thỉnh về sau Tam Tòa Thánh Mẫu. Đặc biệt, Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh dù được thỉnh cuối cùng nhưng lại thường ngự về đồng nhất. Trong bất cứ dịp tiệc, đàn lễ nào, người ta đều phải thỉnh Quan Tuần Tranh về ngự.
Khi ngự đồng, Quan Tuần Tranh mặc áo lam thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao. Trong các đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ trạng rồi mới được đem đi hóa.
Việc thờ phụng Ngũ Vị Tôn Quan không chỉ thể hiện lòng tôn kính của người dân đối với các vị thần linh mà còn là cách để cầu mong sự bảo hộ, phù trợ cho cuộc sống bình an, may mắn và thịnh vượng.
Thảo luận về chủ đề