Đền Hạ Tuyên Quang, còn được biết đến với tên gọi Đền Mẫu Tam Cờ, là một trong những di tích tín ngưỡng thờ Mẫu quan trọng bậc nhất tại miền Bắc Việt Nam. Tọa lạc tại số 53 phố Lý Nam Đế, phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang, ngôi đền thiêng này không chỉ là nơi phát tích của Mẫu Thoải (Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ) mà còn là khởi nguồn của cả một hệ thống đền thờ Mẫu nổi tiếng trong vùng.
Nguồn Gốc Và Lịch Sử Đền Hạ Tuyên Quang
Đền Hạ Tuyên Quang nằm trên vùng đất cổ xưa có tên là Hiệp Thuận, vì vậy đôi khi người dân địa phương còn gọi là Đền Hiệp Thuận. Theo sách Đại Nam nhất thống chí và truyền thuyết dân gian, nguồn gốc của ngôi đền này gắn liền với câu chuyện về hai nàng công chúa con vua Hùng là Phương Dung và Ngọc Lân.
Tương truyền, trong một lần theo xa giá đến bên bờ sông Lô thuộc thôn Hiệp Thuận, hai nàng công chúa đã cho đỗ thuyền nghỉ ngơi. Đêm đó, trời nổi cơn mưa to gió lớn, hai nàng đều hóa. Nhân dân trong vùng cho rằng đây là điềm linh dị nên đã lập đền thờ phụng.

Ban đầu, Đền Tam Cờ Tuyên Quang thờ cả hai chị em Công Chúa Phương Dung và Công Chúa Ngọc Lân. Về sau, Công chúa Ngọc Lân (cô em) được tách ra để lập thờ tại Đền Dùm. Từ đó, Đền Tam Cờ được gọi là Đền Hạ, còn Đền Dùm được gọi là Đền Thượng.
Lịch sử hình thành của Đền Hạ còn gắn liền với Đền Ỷ La. Khi giặc giã tràn vào Tuyên Quang, nhân dân đã vác tượng Mẫu từ Đền Tam Cờ vào Ỷ La và giấu vào một gốc đa. Sau đó, tại nơi giấu tượng Mẫu, một đống mối đùn lên che gần hết tượng. Dân chúng cho rằng đó là điềm ứng bèn cùng nhau góp công, góp của để xây đền – chính là Đền Ỷ La ngày nay.
Mặc dù không rõ thời điểm chính xác khi Đền Tam Cờ được xây dựng, nhưng theo tài liệu lịch sử, ngôi đền được xây dựng quy mô vào năm 1738. Đền Ỷ La được xây dựng vào năm 1747, và Đền Dùm (Đền Thượng) được xây dựng vào năm 1767.
Kiến Trúc Độc Đáo Của Đền Hạ Tuyên Quang
Đền Hạ Tuyên Quang sở hữu kiến trúc theo lối nội công ngoại quốc, với hướng chính Đông nhìn thẳng ra dòng sông Lô hùng vĩ. Tổng thể kiến trúc của đền thể hiện sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên, đồng thời phản ánh tài nghệ điêu luyện của các nghệ nhân xưa.
Khi bước vào khuôn viên đền, du khách sẽ được chiêm ngưỡng hệ thống cổng phụ gồm bốn trụ, trên mỗi đỉnh trụ là một con phượng được đắp nổi tinh xảo. Cạnh sân chầu là hai miếu còn được gọi là Lầu Cô – nơi thờ các vị thần linh phụ trợ cho Mẫu. Tiếp đến là Lầu Tế, nơi thờ Đệ nhị Thượng ngàn, và cuối cùng là Tam phủ – nơi thờ Đệ nhất Thượng ngàn.
Gian chính của đền được bố trí theo hình chữ tam, gồm ba cung thờ trang nghiêm. Trong cung, trên bệ thờ đặt một bộ đỉnh cổ kính, cạnh bệ thờ treo chuông, khánh – những vật dụng thiêng liêng trong nghi lễ thờ cúng.

Điểm nổi bật trong nghệ thuật kiến trúc cổ của Đền Hạ Tuyên Quang chính là những họa tiết chạm khắc gỗ công phu. Các cột, kèo, thượng lương, cửa võng, cửa xiếp đều được chạm trổ tinh xảo, với đề tài chủ đạo là tứ linh (long, lân, quy, phượng) và tứ quý (tùng, cúc, trúc, mai). Đặc biệt, trên thân cột còn có hình Long Giáng thuỷ cung – biểu tượng của sự kết nối giữa thế giới trần gian và thủy cung, nơi Mẫu Thoải ngự trị.
Những hình cây, hoa được chạm khắc trên cửa võng của đền mềm mại như tranh vẽ, thể hiện tài nghệ điêu luyện của các nghệ nhân xưa. Mỗi đường nét, họa tiết đều mang đậm dấu ấn văn hóa dân gian Việt Nam, tạo nên vẻ đẹp vừa trang nghiêm vừa gần gũi cho ngôi đền thiêng.
Giá Trị Nghệ Thuật Của Các Tượng Thờ
Bên cạnh kiến trúc độc đáo, Đền Hạ Tuyên Quang còn lưu giữ nhiều pho tượng có giá trị nghệ thuật cao. Nét mặt các pho tượng toát lên vẻ thanh tao mà uy nghiêm, phản ánh quan niệm thẩm mỹ và tín ngưỡng của người Việt xưa.
Các tư thế của tay, các nếp khăn áo, các hình trang trí trên đồ thờ đều được bàn tay khéo léo của người thợ thể hiện rất sinh động, mang đến cảm giác như các vị thần linh đang hiện diện trong không gian thiêng liêng của đền.
Đặc biệt, Đền Hạ Tuyên Quang còn bảo tồn được nhiều bảo vật lâu đời có giá trị lịch sử và nghệ thuật cao, nổi bật là quả chuông đồng, khánh cỡ lớn được đúc vào thời Lê, 3 pho tượng cổ cùng 20 đạo sắc phong của các triều Lê, Nguyễn. Nội dung các sắc phong không chỉ mang dấu ấn lịch sử mà còn mang tính chất văn chương, ca ngợi phẩm chất cao quý và sự linh thiêng của các nương thần, phù trợ cho dân cho nước.
Sự Tích Về Mẫu Thoải Tại Tuyên Quang
Đền Hạ Tuyên Quang được xem là nơi phát tích của Mẫu Thoải – một trong Tứ phủ Thánh Mẫu được tôn thờ trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Theo truyền thuyết, Mẫu Đệ Tam vốn là con gái Vua Thủy Tề, sinh sống tại chốn Long Cung dưới đáy biển sâu.
Câu chuyện kể rằng, Mẫu kết duyên cùng Kính Xuyên – con trai của Vua Đất. Trong một lần Kính Xuyên đi vắng, Mẫu ở nhà khâu vá và chẳng may kim đâm vào tay chảy máu. Bà đã dùng một tấm vải lụa trắng để thấm máu. Thảo Mai – tiểu thiếp của Kinh Xuyên, vốn đã sinh lòng đố kị từ lâu, đã nhân cơ hội đó giấu tấm lụa đi.
Khi Kính Xuyên trở về, Thảo Mai đã lấy tấm lụa ra và vu oan cho Mẫu đã cắt máu thề nguyền để tư thông cùng kẻ khác. Kính Xuyên không nghe lời thanh minh của vợ, vì ghen tuông mù quáng nên đã bắt đóng cũi bỏ bà lên rừng cho thú dữ ăn thịt.
Tại nơi rừng núi hoang vu, Mẫu được muôn loài quý mến, dâng hoa quả nước uống để bà duy trì sự sống. Một ngày nọ, bà gặp được Liễu Nghị – một thư sinh quê ở đất Thanh Miện, đang trên đường đi thi nhưng chẳng may bị lạc vào nơi bà bị đày ải.
Sau khi biết rõ sự tình, Liễu Nghị đã nhận lời giúp đỡ Mẫu. Bà viết thư nhờ Liễu Nghị mang về đến chốn Long Cung để vua cha thấu hết sự tình. Theo lời chỉ dẫn của Mẫu, Liễu Nghị đã đến sông Ngân Hán – mái Long Giai ngoài biển Đông, và thấy có cây ngô đồng. Anh đã rút cây kim thoa, gõ vào cây ba lần, tức thì gió giật mưa sa, biển động ầm ầm, và giữa dòng hiện lên đôi bạch xà.
Liễu Nghị đã trình bày mọi việc, và đôi bạch xà đã vâng lệnh đưa anh xuống Thủy Cung. Tại đây, Liễu Nghị đã trao cho Vua Thủy Tề bức thư và kể hết mọi chuyện. Vua cha tức giận, sai người đi bắt Kính Xuyên và Thảo Mai, đồng thời truyền cho Trưởng Tử Xích Lân lên đón Mẫu về.
Sau đó, Mẫu được rước về Thoải Phủ và kết duyên cùng Liễu Nghị – người được giao cho chức Quốc Tế Thủy Quan. Từ đó, Mẫu Thoải đã hiển linh tại vùng đất Tuyên Quang, và Đền Hạ, Đền Thượng cùng Đền Ỷ La đã trở thành những nơi thờ phụng chính của Mẫu.
Theo tín ngưỡng dân gian, Mẫu Thoải rất có công phù trợ cho các đời vua trong lịch sử Việt Nam. Tại vùng Thường Tín (Hà Nội) có Đền Xâm Thị và Đền Dầm – nơi ghi dấu tích Mẫu hiển linh phù vua Trần Nhân Tông đánh giặc Nguyên. Tại Thanh Hóa có Đền Mẫu Thác Hàn – nơi Mẫu Thoải đã hiển linh giúp vua Lê Lợi chống quân Minh xâm lược.
Lễ Hội Đền Hạ Tuyên Quang
Lễ hội Đền Hạ Tuyên Quang là một trong những lễ hội truyền thống quan trọng của vùng đất Tuyên Quang, diễn ra hàng năm từ ngày 11 đến hết ngày 16 tháng 2 âm lịch. Đây không chỉ là dịp để người dân địa phương tưởng nhớ, tôn vinh công đức của Mẫu Thoải mà còn là cơ hội để du khách thập phương được trải nghiệm nét đẹp văn hóa tâm linh đặc sắc của vùng đất này.
Lễ hội kéo dài 6 ngày, trong đó lễ chính diễn ra vào ngày 11 và ngày 12 tháng 2 âm lịch. Sáng sớm ngày 11, người dân và khách thập phương tập trung tại Đền Ỷ La để rước bà Phương Dung công chúa ra Đền Hạ. Đến ngày 12, mọi người lại tề tựu đông đủ tại Đền Thượng để rước bà Ngọc Lân công chúa về Đền Hạ. Hai bà sẽ gặp nhau tại Đền Hạ để cùng hợp tế – một nghi thức thiêng liêng thể hiện sự đoàn kết, gắn bó giữa hai chị em công chúa.

Sau phần lễ trang nghiêm là phần hội với nhiều trò chơi dân gian đặc sắc như đánh tổ tôm, tam cúc, cờ tướng, ô ăn quan, chọi gà, kéo co, hát văn… Các hoạt động này kéo dài suốt ba ngày 13, 14, và 15 tháng 2, tạo nên không khí vui tươi, đoàn kết trong cộng đồng.
Đến ngày 16 tháng 2, mọi người cùng làm lễ hoàn cung để đưa Mẫu trở về đền thờ riêng của mình, đánh dấu sự kết thúc của lễ hội Đền Hạ Tuyên Quang. Dù lễ hội đã khép lại, nhưng những giá trị văn hóa, tâm linh mà nó mang lại vẫn tiếp tục được lưu truyền và phát huy trong đời sống tinh thần của người dân.
Lễ hội Đền Hạ Tuyên Quang không chỉ là dịp để tưởng nhớ, tôn vinh các vị thần linh mà còn là cơ hội để người dân địa phương thể hiện lòng biết ơn đối với các bậc tiền nhân đã có công khai phá, bảo vệ vùng đất Tuyên Quang. Đồng thời, lễ hội cũng góp phần gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Thảo luận về chủ đề