Liễu Hạnh Công Chúa là một trong những vị Thánh Mẫu quan trọng nhất trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt Nam. Được xem là một trong “Tứ bất tử“ cùng với Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử và Thánh Gióng, Mẫu Liễu Hạnh đã trở thành biểu tượng tâm linh thiêng liêng, được tôn thờ rộng rãi khắp miền Bắc Việt Nam. Bài viết này sẽ khám sự tích về Liễu Hạnh Công Chúa.
Liễu Hạnh Công Chúa là ai?
Thánh Mẫu Liễu Hạnh, hay còn gọi là Liễu Hạnh Công Chúa, là một nhân vật tâm linh đặc biệt trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Bà được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như Bà Chúa Liễu, Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Thiên hoặc đơn giản là Mẫu Liễu. Nguồn: Wikipedia
Theo tín ngưỡng dân gian, Liễu Hạnh Công Chúa là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng Đế và Mẫu Thiên Hậu. Bà được xem là vị Thánh Mẫu đứng đầu hệ thống Tam phủ, Tứ phủ trong đạo Mẫu, đại diện cho tầng trời (Thiên phủ) trong hệ thống tín ngưỡng này.

Điều đặc biệt là Liễu Hạnh Công Chúa đã ba lần giáng trần, mỗi lần đều để lại những dấu ấn sâu đậm trong tâm thức người Việt. Bà được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn tôn phong là “Mẫu nghi thiên hạ – Mẹ của muôn dân”, “Chế Thắng Bảo Hòa Diệu Đại Vương” và cuối cùng quy y cửa Phật theo lối bán tu rồi thành đạo là Mã Vàng Bồ Tát.
Sự tích ba lần giáng trần của Liễu Hạnh Công Chúa
Lần giáng trần thứ nhất
Căn cứ vào các tài liệu lịch sử như Tiên Phả Dịch Lục, Quảng Cung Linh Từ Phả Ký và Cát Thiên Tam Thế Thực Lục, lần đầu tiên Liễu Hạnh Công Chúa giáng trần vào đầu thời nhà Hậu Lê.
Vào đêm rằm tháng hai, ông Phạm Huyền Viên và bà Đoàn Thị Hằng ở thôn Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng (nay thuộc thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định) được thần báo mộng rằng Ngọc Hoàng sẽ cho con gái thứ hai là Công chúa Hồng Liên đầu thai làm con.
Đêm ngày 6 tháng 3 năm Quý Sửu (1433), trong không khí huyền ảo với mây vàng và ánh hào quang, bà Đoàn Thị Hằng sinh hạ một bé gái. Ông Phạm Huyền Viên đặt tên con là Phạm Tiên Nga vì ông như thấy một nàng tiên từ trong đám mây bước xuống thềm nhà.
Phạm Tiên Nga lớn lên xinh đẹp, đảm đang và thông thạo mọi việc nữ công gia chánh. Dù có nhiều người đến dạm hỏi khi cô tròn 15 tuổi, nhưng cô đều từ chối vì muốn ở nhà chăm sóc cha mẹ già.
Năm 1462, cha của Tiên Nga qua đời, và hai năm sau mẹ cô cũng mất. Sau ba năm để tang cha mẹ, Phạm Tiên Nga bắt đầu chu du khắp nơi làm việc thiện. Bà đã giúp dân đắp đê ngăn nước, làm cầu đá, khơi ngòi dẫn nước, khai khẩn đất ven sông, giúp đỡ người nghèo và chữa bệnh cho người ốm.
Năm 36 tuổi, bà dựng chùa Kim Thoa bên bờ Sông Đồi để thờ Đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát và song thân. Sau đó, bà tiếp tục tu sửa nhiều ngôi chùa khác và giúp dân lập làng, dạy nghề trồng dâu nuôi tằm.
Đến đêm ngày 2 tháng 3 năm Quý Tỵ (1473), khi vừa tròn 40 tuổi, bà đã hóa thần về trời trong một cơn giông lớn. Nhân dân xã La Ngạn và Vỉ Nhuế đã lập đền thờ bà, gọi là Phủ Đại La Tiên Từ và Phủ Quảng Cung.
Lần giáng trần thứ hai
Vì thương nhớ cha mẹ và quê hương, năm Đinh Tỵ (1557), Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh lần thứ hai làm con ông Lê Thái Công và bà Trần Thị Phúc tại Giáp Nhất thôn An Thái, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản (nay là Xóm 1, thôn Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định).
Ông Lê Thái Công đặt tên con là Lê Giáng Tiên vì ông từng mơ thấy nàng tiên nữ bưng khay rượu trong bữa tiệc chúc thọ Ngọc Hoàng. Lê Giáng Tiên kết duyên với ông Trần Đào Lang và sinh được một trai một gái, tên là Nhân và Hòa.
Tuy nhiên, vào ngày 3 tháng 3 năm Đinh Sửu (1577), khi mới 21 tuổi, bà đột ngột qua đời mà không hề có bệnh tật gì. Lăng mộ và đền thờ của bà được xây dựng tại Phủ Dày, thôn Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định – nơi hiện nay được biết đến là quần thể di tích Phủ Dày.
Sau khi về trời, Giáng Tiên vẫn nhớ thương gia đình nên thỉnh thoảng lại hiện về thăm. Bà thường xuất hiện vào những dịp gia đình làm giỗ, giúp đỡ việc nhà, chăm sóc chồng con rồi lại biến đi. Chỉ khi con cái đã khôn lớn và chồng bà công thành danh toại, bà mới từ biệt để đi chu du thiên hạ.
Lần giáng trần thứ ba
Vào thời Lê Khánh Đức thứ 2 (1650), Liễu Hạnh Công Chúa giáng trần lần thứ ba tại làng Tây Mỗ, xã Hà Thái, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá. Bà tái hợp với ông Trần Đào Lang, lúc này đã tái sinh là Mai Thanh Lâm, và sinh được một con trai tên là Cổn.
Bà mất ngày 23 tháng 12 năm Mậu Thân (1668), khi mới 18 tuổi. Đền thờ bà được xây dựng tại Phủ Sòng Sơn, Thanh Hoá.
Sau khi hóa về trời lần thứ ba, Liễu Hạnh Công Chúa vẫn tiếp tục hiển linh giúp đỡ người lành, trừng trị kẻ ác. Nhân dân đã dựng nhiều đền thờ để tưởng nhớ và thờ phụng bà.
Những truyền thuyết nổi tiếng về Liễu Hạnh Công Chúa
Trận giao chiến trên Đèo Ngang
Một trong những truyền thuyết nổi tiếng về Liễu Hạnh Công Chúa là câu chuyện về trận giao chiến trên Đèo Ngang. Thời vua Lê Thái Tổ (1385-1433), Tiên Chúa hóa phép thành một cô gái tuyệt đẹp, mở quán bán hàng cho khách bộ hành ở chân đèo Ngang (Hà Tĩnh).
Tin đồn về sắc đẹp của cô gái lan đến tận kinh đô, khiến hoàng tử sắp kế nghiệp tìm đến. Tuy nhiên, vì hoàng tử có ý không tốt, Tiên Chúa đã làm cho ông ta trở nên điên dại. Triều đình phải nhờ đến tám vị Kim Cương để bắt Tiên Chúa. Sau khi nghe Tiên Chúa kể lại sự thật, nhà vua đã phải xin lỗi và để bà ra đi.
Cuộc gặp gỡ với Phùng Khắc Khoan và nguồn gốc di tích Phủ Tây Hồ
Theo truyền thuyết, nhà thơ Phùng Khắc Khoan đã hai lần gặp Liễu Hạnh Công Chúa và có dịp xướng họa thơ với bà. Lần đầu tại ngôi chùa cổ nằm sát chân núi vùng Đồng Đăng (Lạng Sơn) khi ông đi sứ về, và lần thứ hai tại Hồ Tây (Hà Nội) khi ông cùng hai bạn đi chơi thuyền.
Cuộc gặp gỡ tại Hồ Tây đã được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm ghi lại trong truyện “Vân Cát thần nữ” thuộc tập “Truyền kỳ tân phả”. Bài thơ “Tây Hồ quan ngư” (Xem cá Hồ Tây) ra đời từ cuộc gặp gỡ này, và sau này Phủ Tây Hồ được xây dựng để thờ Liễu Hạnh Công Chúa.
Câu chuyện về cuộc gặp gỡ tại Lạng Sơn cũng rất nổi tiếng. Khi Phùng Khắc Khoan đi sứ từ Trung Quốc về đến Lạng Sơn, ông thấy một cô gái xinh đẹp ngồi dưới ba cây thông trước sân chùa, vừa đàn vừa hát. Hai người đã đối đáp thơ với nhau bằng những câu chơi chữ tinh tế. Khi Phùng Khắc Khoan cúi đầu làm lễ, cô gái biến mất, chỉ để lại trên thân cây bốn chữ “Mão khẩu công chúa” (ám chỉ Liễu Hạnh Công Chúa) và “Băng mã dĩ tẩu” (ám chỉ họ Phùng của ông).
Đền thờ Liễu Hạnh Công Chúa
Liễu Hạnh Công Chúa được thờ phụng rộng rãi khắp miền Bắc Việt Nam, với nhiều đền thờ nổi tiếng:
Quần thể di tích Phủ Dày
Phủ Dày tại xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định là một trong những trung tâm thờ Mẫu Liễu Hạnh lớn nhất. Phủ Chính được xây dựng trên nền nhà của Mẫu trong kiếp thứ hai, với khu vườn phía sau chính là nơi Mẫu thường ra gẩy đàn ngâm thơ.

Hàng năm, lễ hội Phủ Dày được tổ chức vào ngày 3 tháng 3 âm lịch – ngày giỗ của Mẫu trong kiếp thứ hai. Lễ hội này còn gắn liền với Hội chợ Viềng, họp vào ngày 7 tháng giêng.
Phủ Tây Hồ
Phủ Tây Hồ ở Hà Nội là một trong những đền thờ Liễu Hạnh Công Chúa được nhiều người biết đến. Đền được xây dựng sau cuộc gặp gỡ giữa Phùng Khắc Khoan và Liễu Hạnh tại Hồ Tây. Đây là điểm đến tâm linh quan trọng của người dân Hà Nội và du khách thập phương.
Các đền thờ khác
Ngoài ra, Liễu Hạnh Công Chúa còn được thờ tại nhiều nơi khác như:
- Đền Mẫu Đồng Đăng Lạng Sơn
- Chùa Phúc Lâm, phủ Kim Thoa ở xóm 1 (tục gọi là làng Đồi), xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định
- Phủ Quảng Cung (Phủ Nấp) ở thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định
- Phủ Đồi Ngang, đền Dâu, đền Quán Cháo ở phòng tuyến Tam Điệp (Ninh Bình)
- Đền Sòng ở phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn, Thanh Hoá
- Đền Sòng Sơn ở số 35 phố Tôn Đức Thắng, phường Quốc Tử Giám, quận Đống Đa, Hà Nội
- Đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh (tục gọi là Đình Nghè), ở xã Yên Luật, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ
Lễ hội Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Lễ hội Thánh Mẫu Liễu Hạnh được tổ chức hàng năm vào ngày 3 tháng 3 âm lịch – ngày giỗ của bà trong kiếp thứ hai. Lễ hội thường kéo dài vài tuần lễ, với nhiều hoạt động văn hóa, tín ngưỡng đặc sắc.
Tại Phủ Dày, lễ hội còn gắn liền với Hội chợ Viềng, họp vào ngày 7 tháng giêng. Đây là dịp để người dân cầu mong một năm mới an lành, may mắn và tài lộc.
Trong các buổi lễ hội, nghi thức hầu đồng (hay còn gọi là hầu bóng) thường được tổ chức. Đây là nghi thức đặc biệt, trong đó các thanh đồng (người hầu đồng) sẽ nhập đồng, để các vị thần, trong đó có Liễu Hạnh Công Chúa, nhập vào và ban phước lành cho người dân.
Liễu Hạnh Công Chúa là một trong những nhân vật tâm linh quan trọng nhất trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Sự tích về ba lần giáng trần của bà, cùng với những truyền thuyết về các cuộc gặp gỡ với nhân vật lịch sử như Phùng Khắc Khoan, đã tạo nên một bức tranh văn hóa tâm linh đa dạng và phong phú.
Ngày nay, tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh vẫn tiếp tục phát triển và lan tỏa, không chỉ ở miền Bắc mà còn ở nhiều vùng miền khác của Việt Nam. Các đền thờ Liễu Hạnh Công Chúa trở thành điểm đến tâm linh quan trọng, thu hút đông đảo người dân và du khách thập phương đến chiêm bái, cầu an.
Qua sự tích Liễu Hạnh Công Chúa, chúng ta không chỉ hiểu thêm về tín ngưỡng dân gian mà còn cảm nhận được những giá trị nhân văn sâu sắc trong văn hóa truyền thống Việt Nam: lòng nhân ái, tinh thần giúp đỡ cộng đồng và sự gắn kết giữa con người với thế giới tâm linh.
Thảo luận về chủ đề